Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

Luận án Phát triển nguồn nhân lực Quân sự chất lượng cao

Tóm tắt Luận án Phát triển nguồn nhân lực Quân sự chất lượng cao

Phát triển nguồn nhân lực Quân sự chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội nhân dân việt nam


Chương 1 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC QUÂN SỰ CHẤT LƯỢNG CAO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HIỆN ĐẠI HOÁ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao và vai trò của nó đối với yêu cầu hiện đại hoá Quân đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao

1.1.1.1. Nguồn nhân lực quân sự
Nguồn nhân lực (human resource) là một khái niệm thuộc khoa học kinh tế và hiện có tính liên ngành cao ra đời vào thập niên 1980, muộn hơn so với khái niệm “vốn con người” (Human Capital). Đây là khái niệm có nhiều cách tiếp cận ở những phương diện, phạm vi khác nhau và có sự biến đổi theo thời gian song về cơ bản đã có sự thống nhất cao.
Theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, “nguồn”(resource) có nghĩa là một tiềm năng, một tài sản của đất nước có thể khai thác.“Nhân lực” (human; manpower) là thuật ngữ trừu tượng chỉ sự nỗ lực lao động của con người hoặc được dùng như là thuật ngữ nhân sự (personnel) [93]. Khi dùng khái niệm NNL, thường quan tâm xem xét con người trong mối quan hệ với tự nhiên, cùng với đó là tổng hợp những cơ chế chính sách nhằm phát huy, khai thác khả năng của con người trong quá trình sản xuất. Như vậy, “vốn người” khi được sử dụng thành NNL - yếu tố quan trọng nhất trong nội lực của đất nước.
Trong lĩnh vực quân sự thuật ngữ “lao động quân sự” thường được dùng để chỉ những người tham gia trực tiếp vào các hoạt động quân sự, quốc phòng. Gần đây thuật ngữ này tuy có được đề cập nhưng chưa phổ biến và còn ý kiến khác biệt. Tác giả luận án cho rằng, dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị cần đưa ra khái niệm về NNL quân sự để định hướng phát triển cho một nguồn lực đặc biệt trong một lĩnh vực đặc thù – lĩnh vực quân sự.
Trước hết, để đưa ra khái niệm NNL quân sự, cần xuất phát từ phạm trù lao động sức lao động trong lĩnh vực quân sự.
Dưới góc độ kinh tế, lao động là “quá trình hoạt động tự giác, hợp lý của con người, nhờ đó, con người làm thay đổi các đối tượng tự nhiên và làm cho chúng thích ứng để thoả mãn nhu cầu của mình” [147, tr.222]. Vì vậy, lao động chính là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tác động và làm thay đổi tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Quân sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù nên đòi hỏi phải có những nguồn lực đặc biệt để đáp ứng, nhất là yêu cầu cao về chất lượng con người. Lao động quân sự diễn ra trong điều kiện khó khăn, gian khổ, căng thẳng trong không gian và thời gian khó xác định. Hoạt động này đòi hỏi hy sinh về lợi ích cá nhân thậm chí cả xương máu của những người tham gia. Trong thời bình quá trình lao động quân sự bị tác động bởi các quy luật kinh tế thị trường song những quy luật đặc thù trong lĩnh vực quân sự vẫn giữ vai trò chi phối.
Trong khoa học kinh tế, khái niệm sức lao động đã được đề cập và có sự thống nhất cao. Trong tác phẩm Tư bản luận K.Marx đã khẳng định sức lao động “là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [28, tr.251]. Theo đó, sức lao động là tổng hợp thể lực, trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động [22]. Như vậy, hiểu thực chất, sức lao động chính là khả năng lao động của con người và lao động chính là quá trình tiêu dùng sức lao động.
Từ quan niệm trên có thể thấy, trong lĩnh vực quân sự có cả thuật ngữ lao động quân sự sức lao động quân sự. Sức lao động quân sự là tổng hợp thể lực, trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động quân sự. Nhưng vì tính chất đặc biệt của lao động quân sự nên con người phải được chuẩn bị kĩ lưỡng cả về thể lực, trí lực, tâm lực để đáp ứng yêu cầu “tiêu dùng sức lao động quân sự” trong cả điều kiện hoà bình và chiến tranh.
Thứ hai, trong lĩnh vực quân sự có khái niệm NNL quân sự
Cho đến nay, khái niệm NNL quân sự vẫn chưa được sử dụng phổ biến và có sự thống nhất cao. Điều đó xuất phát từ quan niệm cho rằng, hoạt động quân sự là một lĩnh vực hoàn toàn phi sản xuất vật chất, là “hoạt động tiêu dùng một cách thuần túy”. Đây là quan niệm chưa thực sự tiếp cận khái niệm lao động quân sựsức lao động quân sự dưới góc độ kinh tế. Về mặt lý luận, NNL quân sự cần được hiểu cả ở dạng tiềm năng (khả năng huy động) và hiện thực (khai thác, sử dụng hiệu quả). Về mặt thực tiễn quân sự là một lĩnh vực đặc biệt đòi hỏi phải luôn luôn chuẩn bị sẵn mọi nguồn lực nhất là nguồn lực con người. Mặt khác, quân đội không chỉ gián tiếp tham gia vào sản xuất vật chất mà trong cả thời bình lẫn thời chiến đều có sự tham gia trực tiếp vào quá trình đó. Xét trong tổng thể của quá trình sản xuất vật chất nói chung, hoạt động quân sự chỉ là một bộ phận, một khâu, một lĩnh vực hết sức đặc thù. Vì vậy, không chỉ trong hoạt động kinh tế mới xuất hiện khái niệm NNL mà trong lĩnh vực quân sự cũng có NNL quân sự.


 


Xem chi tiết và tải tại liệu tại ĐÂY
 
xem thêm tài liệu khác tại: http://tailieumau.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét